Tìm hiểu Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự - hình sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
13-8-2014
Ngày 06/7/1998, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã ký kết “Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự” (Hiệp định tương trợ tư pháp). Nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về Hiệp định này, Trang TTĐT Sở Tư pháp xin giới thiệu bài viết của đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum về “Những quy định chung và nội dung tương trợ tư pháp về dân sự”.
Tìm hiểu Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự - hình sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Quang cảnh buổi Hội đàm giữa hai Bộ Tư pháp nước CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào tại thủ đô Viêng Chăn ngày 28/7/2014 (ảnh sưu tầm).
Hiệp định tương trợ tư pháp gồm 4 chương và 77 điều, đã quy định khá đầy đủ và toàn diện về lĩnh vực tương trợ tư pháp giữa hai nước. Trong đó, đã thể hiện đầy đủ các quy định như phạm vi tương trợ tư pháp, nội dung, hình thức, cách thức thực hiện ủy thác; trao đổi thông tin pháp luật; ngôn ngữ sử dụng, bảo hộ pháp lý; cách thức liên hệ, tống đạt tài liệu; xác nhận tống đạt tài liệu; tống đạt tài liệu cho công dân nước mình; giá trị của tài liệu; giữa tài liệu về hộ tịch; chi phí trong việc tương trợ tư pháp…

Về lĩnh vực tương trợ tư pháp: Cơ quan tư pháp của các nước ký kết sẽ tương trợ nhau về tư pháp đối với các vấn đề dân sự (kể cả lao động, hôn nhân, gia đình) và hình sự; Cơ quan tư pháp cũng tương trợ nhau về tư pháp cho các cơ quan khác của các Nước ký kết có thẩm quyền về các vấn đề như trên.

Cách thức liên hệ: Trong khi thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan tư pháp của các Nước ký kết liên hệ với nhau thông qua Bộ Tư pháp hoặc Viện kiểm sát tối cao (về vấn đề hình sự) của nước mình, trừ trường hợp Hiệp định này có quy định khác. Cơ quan tư pháp của các tỉnh giáp biên giới của các Nước ký kết được liên hệ trực tiếp với nhau để thực hiện tương trợ tư pháp, nhưng phải báo cáo cho Bộ Tư pháp hoặc Viện kiểm sát tối cao của nước mình trước.

Về phạm vi tương trợ tư pháp: Các Nước ký kết tương trợ nhau trong việc thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt đối với từng vụ án như: tống đạt giấy tờ; lấy tờ khai của đương sự, người làm chứng và những người có liên quan; tiến hành giám định; thu thập chứng cứ, chuyển giao chứng cứ và kết quả của việc giám định cùng với hồ sơ và các tài liệu khác; công nhận và thi hành bản án, quyết định của Toà án và của Trọng tài kinh tế; dẫn độ người phạm tội.Việc qua lại biên giới của công dân các Nước ký kết tuân theo thoả thuận qiữa hai nước về quy chế biên giới và quy định của pháp luật mỗi nước về xuất nhập cảnh.Tương trợ tư pháp nói trong Hiệp định này được tiến hành trên cơ sở uỷ thác tư pháp, nếu Hiệp định này không có quy định khác.

Về nội dung và hình thức ủy thác tư pháp: Uỷ thác tư pháp được lập bằng văn bản theo mẫu in sẵn, bằng ngôn ngữ của Nước ký kết và phải có những nội dung chính như: Tên cơ quan của Nước ký kết yêu cầu; Tên cơ quan của Nước ký kết được yêu cầu; Tên của việc được uỷ thác, nội dung yêu cầu và điều kiện cần thiết trong việc thực hiện uỷ thác; Họ và tên, tuổi, quốc tịch của đương sự, người làm chứng và những người khác có liên quan tới vụ việc, địa chỉ chính xác của người đó, chuyên môn và nghề nghiệp của họ, nếu biết; Họ và tên, địa chỉ chính xác của người đại diện hợp pháp của đương sự, nếu có.

Đối với các uỷ thác tư pháp về hình sự, ngoài những quy định tại khoản 1 Điều này, còn phải có bản mô tả tình tiết của vụ án, nơi xảy ra hành vi phạm tội hình sự, đồng thời nêu tội danh theo pháp luật quy định, ngày sinh, nơi sinh của bị can, bị cáo; lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo (nếu có). Văn bản uỷ thác tư pháp phải được người đại diện Cơ quan tư pháp của Nước ký kết yêu cầu ký tên và đóng dấu hợp lệ.

Về cách thức thể hiện ủy thác tư pháp: Khi thực hiện uỷ thác tư pháp, Cơ quan tư pháp của Nước ký kết được yêu cầu áp dụng pháp luật của nước mình. Trong trường hợp có đề nghị của cơ quan tư pháp của nước ký kết yêu cầu, Cơ quan tư pháp của nước ký kết được yêu cầu có thể áp dụng pháp luật của Nước ký kết yêu cầu, nếu pháp luật được áp dụng không trái với pháp luật của Nước ký kết được yêu cầu.

Hình thức hợp đồng dân sự: Hình thức của hợp đồng dân sự phải tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi giao kết hợp đồng. Hình thức của hợp đồng liên quan đến bất động sản phải tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Cơ quan tư pháp của nước ký kết nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan tới bất động sản đó.

Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại và thuộc thẩm quyền của cơ quan tư pháp của Nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại đó.

Nếu người gây thiệt hại và người bị thiệt hại cùng có quốc tịch của Nước ký kết này nhưng cư trú trên lãnh thổ của Nước ký kết kia, thì vận dụng pháp luật của Nước ký kết nơi họ cư trú

Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: Trong việc kết hôn giữa công dân các Nước ký kết, mỗi bên đương sự phải tuân theo điều kiện kết hôn quy định trong pháp luật của Nước ký kết mà họ là công dân. Trong trường hợp kết hôn tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của một Nước ký kết, thì họ còn phải tuân theo pháp luật của Nước ký kết đó về điều kiện kết hôn.

Nghi thức kết hôn được thực hiện theo pháp luật của Nước ký kết nơi tiến hành kết hôn. Việc kết hôn được tiến hành đúng theo pháp luật của một Nước ký kết này thì được công nhận tại nước ký kết kia, trừ trường hợp việc công nhận kết hôn đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước công nhận.

Nuôi con nuôi: Công dân của Nước ký kết này có thể nhận trẻ em là công dân của Nước ký kết kia làm con nuôi. Việc nhận con nuôi phải tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà trẻ em đó là công dân.

Về thừa kế: Công dân của Nước ký kết này có quyền thừa kế tài sản trên lãnh thổ của Nước ký kết kia như công dân của Nước ký kết kia. Việc thừa kế động sản được thực hiện theo pháp luật của Nước ký kết mà người để lại di sản là công dân khi qua đời.  Việc thừa kế bất động sản được thực hiện theo pháp luật của Nước ký kết nơi có di sản là bất động sản. Việc phân biệt di sản là động sản hoặc bất động sản tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi có di sản.

Về công nhận và thi hành bản án, quyết định: Nước ký kết này sẽ công nhận và thi hành bản án, quyết định sau đây của Nước ký kết kia trên lãnh thổ nước mình theo quy định của Hiệp định này: Bản án, quyết định dân sự, kể cả bản án, quyết định của Toà án về lao động, hôn nhân, thừa kế và các bản án, quyết định khác ghi trong Hiệp định này; Quyết định về phần tài sản trong bản án hình sự; Quyết định của Trọng tài kinh tế của Nước ký kết… (còn tiếp)

Nguyễn Văn Bảy - Giám đốc Sở Tư pháp  
Số lượt xem:3489